Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

Mâu Tử Lý Hoặc Luận tựa - Phiên âm - dịch nghĩa



梁楊都建初寺釋僧祐集
Lương Dương Đô Kiến Sơ tự Thích Tăng Hựu tập

理惑論  Lý Hoặc Luận

三十七篇   
Tam thập thất thiên (37 thiên)
一云蒼梧太守牟子博傳
Nhất vân Thương Ngô thái thủ Mâu Tử bác truyện (Truyện Thái thú quận Thương Ngô Mâu Tử Bác.)
漢牟融  
Hán Mâu Dung

牟子既修經傳諸子。Mâu Tử ký tu kinh truyện chư tử (Mâu Tử đã học kinh truyện)
書無大小靡不好之。thư vô đại tiểu, mỹ bất hiếu chi (sách chư tử không kể lớn nhỏ, không gì là không ham.)
雖不樂兵法。Tuy bất nhạo binh pháp (tuy không ưa binh pháp)
然猶讀焉。nhiên do độc yên (nhưng cũng vẫn đọc.)
雖讀神仙不死之書。Tuy độc thần tiên bất tử chi thư (tuy đọc sách thần tiên bất tử)
抑而不信。ức nhi bất tín (dẹp đi không tin)
以為虛誕。dĩ vi hư đản (cho là dối trá.)
是時靈帝崩後。Thị thời Linh Đế băng hậu (189) (lúc ấy, sau khi Linh đế băng)
天下擾亂。thiên hạ nhiễu loạn (thiên hạ nhiễu loạn)
獨交州差安。độc Giao Châu sai an (chỉ Giao Châu tạm yên.)
北方異人咸來在焉。Bắc phương dị nhân hàm lai tại yên (dị nhân phương Bắc kéo nhau đến ở)
多為神仙辟穀長生之術đa vi thần tiên tịch cốc trường sanh chi thuật. (phần nhiều thực hành thuật thần tiên tịch cốc trường sinh.)
時人多有學者。Thời nhân đa hữu học giả (Người bây giờ có nhiều học giả)
牟子常以五經難之。Mâu Tử thường dĩ ngũ kinh nạn chi (Mâu Tử thường đem ngũ kinh gạn hỏi.)
道家術士莫敢對焉。Đạo gia thuật sĩ mạc cảm đối yên (đạo gia thuật sỹ không ai dám đáp)
比之於孟軻距楊朱墨翟。tỷ chi ư Mạnh Kha cự Dương Chu, Mặc Địch (ví ông với Mạnh Kha chống Dương Chu, Mạc Địch.)
先是時牟子將母避世交趾。Tiên thị thời, Mâu Tử tương mẫu tỵ thế Giao Chỉ (trước lúc ấy, Mâu Tử dắt mẹ lánh nạn Giao Châu)
年二十六歸蒼梧娶妻。niên nhị thập lục quy Thương Ngô thú thê (Năm 26 tuổi về Thương Ngô lấy vợ.)
太守聞其守學。Thái thú văn kỳ thủ học (Thái thú nghe tiếng có học)
謁請署吏。yết thỉnh thự lại. (đến thăm mời ra làm quan.)
時年方盛。Thời niên phương thạnh (bấy giờ tuổi mới trưởng thành)
志精於學。chí tinh ư học (chí chuyên học vấn)
又見世亂。hựu kiến thế loạn (lại thấy đời loạn)
無仕官意。vô sĩ quan ý (không có ý làm quan)
竟遂不就。cánh toại bất tựu (nên bèn không đến.)
是時諸州郡相疑隔塞不通。Thị thời chư châu quận tương nghi, cách tắc bất thông. (Lúc ấy châu quận nghi nhau, cách trở không thông.)
太守以其博學多識。Thái thủ dĩ kỳ bác học đa thức (Thái thú thấy ông học rộng, biết nhiều)
使致敬荊州。sử trí kính Kinh Châu (nhờ đi “trí kỉnh” Kinh Châu.)
牟子以為榮爵易讓。Mâu Tử dĩ vi vinh tước dị nhượng (Mâu Tử nghĩ tước lộc dễ nhượng)
使命難辭。sứ mệnh nan từ (sứ mệnh khó từ)
遂嚴當行。toại nghiêm đương hành (ông mới sửa soạn ra đi.)
會被州牧優文處士辟之。Hội bị Châu Mục ưu văn xử sĩ tịch chi (gặp lúc châu mục trọng văn đãi sĩ, bổ làm quan)
復稱疾不起。phục xưng tật bất khởi (ông lại cáo bệnh không đến)
牧弟為豫章太守。Mục đệ vi Dự Chương thái thủ (em châu mục làm thái thú Dự Chương)
為中郎將笮融所殺。vi Trung Lang tướng Trách Dung sở sát (bị trung lang tướng Trức Dung giết.)
時牧遣騎都尉劉彥。Thời mục khiển Kỵ đô uý Lưu Ngạn (bấy giờ châu mục sai kỵ đô úy Lưu Ngạn)
將兵赴之。tương binh phó chi (đem quân đi đánh)
恐外界相疑兵不得進。khủng ngoại giới tương nghi, binh bất đắc tiến (song sợ cõi ngoài nghi nhau, quân không được tiến.)
牧乃請牟子曰。Mục nãi thỉnh Mâu Tử viết: (Châu mục mới mời Mâu Tử, nói:)
弟為逆賊所害。“Đệ vi nghịch tặc sở hại (“em tôi bị nghịch tặc ám hại)
骨肉之痛憤發肝心。cốt nhục chi thống, phẫn phát can tâm (nỗi đau cốt nhục uất phát tim gan)
當遣劉都尉行。đương khiển Lưu đô uý hành (phải sai Lưu đô úy đi)
恐外界疑難  khủng ngoại giới nghi nan (song sợ cõi ngoài nghi kỵ)
行人不通。hành nhân bất thông (người đi không thông.)
君文武兼備有專對才。Quân văn vũ kiêm bị, hữu chuyên đối tài (ông văn võ gồm đủ, có tài chuyên đối)
今欲相屈之。kim dục tương khuất chi (nay muốn giúp nhau)
零陵桂陽假塗於通路何如。Linh Lăng, Quế Dương, giả đồ ư thông lộ, hà như? (mượn đường Linh Lăng, Quế Dương để làm thông lộ, thế nào?”)
牟子曰。Mâu Tử viết: (Mâu Tử đáp:)
被秣服櫪見遇日久。“Bị mạt phục lịch, kiến ngộ nhật cửu (“chịu ơn nhờ nghĩa, đãi ngộ lâu ngày)
列士忘身期必騁效。liệt sĩ vong thân, kỳ tất sính hiệu (liệt sĩ quên mình, hẹn tất phải đi!”)
遂嚴當發。Toại nghiêm đương phát (bèn sửa soạn lên đường)
會其母卒亡遂不果行。hội kỳ mẫu tốt vong, toại bất quả hành (gặp lúc mẹ mất đột ngột, bèn không đi được.)
久之退念。Cửu chi thối niệm (lâu sau đó, ông rút lui)
以辯達之故輒見使命。dĩ biện đạt chi cố, triếp kiến sứ mệnh (nghĩ rằng: “Vì do thông giỏi, được giao sứ mệnh)
方世擾攘非顯己之秋也。phương thế nhiễu nhương, phi hiển kỷ chi thu dã (đời nay nhiễu nhương, chẳng phải lúc làm rõ mình”.)
乃歎曰。Nãi thán viết: (bèn thở dài, nói:)
老子絕聖棄智。“Lão Tử tuyệt thánh khí trí (“Lão Tử dứt thánh bỏ trí)
修身保真。, tu thân bảo chân (sửa thân giữ chân)
萬物不干其志。Vạn vật bất can kỳ chí (vạn vật không ngăn chí ông)
天下不易其樂。thiên hạ bất dịch kỳ lạc (thiên hạ không đổi niềm vui của ông)
天子不得臣。thiên tử bất đắc thần (thiên tử không được bầy tôi)
諸侯不得友。chư hầu bất đắc hữu (chư hầu không được kết bạn)
故可貴也。cố khả quý dã (nên có thể là quý”)
於是銳志於佛道。Ư thị duệ chí ư Phật đạo (từ đó dốc chí vào đạo Phật)
兼研老子五千文。kiêm nghiên Lão Tử Ngũ Thiên Văn (gồm ngẫm Lão Tử năm ngàn chữ)
含玄妙為酒漿。hàm huyền diệu vi tửu tương (ngậm huyền diệu làm rượu ngon)
翫五經為琴簧。ngoạn ngũ kinh vi cầm hoàng (xem ngũ kinh làm đàn sáo.)
世俗之徒。Thế tục chi đồ (bọn thế tục)
多非之者。đa phi chi giả (nhiều kẻ cho là không phải)
以為背五經而向異道。dĩ vi bối ngũ kinh nhi hướng dị đạo (vì đã phản bội ngũ kinh, để đi về đạo khác.)
欲爭則非道。Dục tranh tắc phi đạo (muốn cãi thì không phải đạo)
欲默則不能。dục mặc tắc bất năng (muốn im thì không được)
遂以筆墨之間。toại dĩ bút mặc chi gian (bèn lấy bút mực)
略引聖賢之言證解之。lược dẫn thánh hiền chi ngôn chứng giải chi (gọi dẫn lời thánh hiền để chứng giải)
名曰牟子理惑。, danh viết “Mâu Tử Lý Hoặc” (đặt tên là Mâu Tử lý hoặc.)

Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2013

Ôn Thi Tại Lớp Môn Phật Giáo Và Văn Hóa Trung Quốc



Câu 1: Phiên âm và dịch nghĩa bài tựa LHL (chỉ từ Hán sang Việt – phần phiên âm tự tra cho nhớ). Xem thêm phần tác giả, tác phẩm, niên đại, chơn ngụy,... của tác phẩm LHL.
弘明集
梁楊都建初寺釋僧祐集 - 理惑論
三十七篇        一云蒼梧太守牟子博傳
漢牟融
牟子既修經傳諸子。書無大小靡不好之。雖不樂兵法。然猶讀焉。雖讀神仙不死之書。抑而不信。以為虛誕。是時靈帝崩後。天下擾亂。獨交州差安。北方異人咸來在焉。多為神仙辟穀長生之術。時人多有學者。牟子常以五經難之。道家術士莫敢對焉。比之於孟軻距楊朱墨翟。
先是時牟子將母避世交趾。年二十六歸蒼梧娶妻。太守聞其守學。謁請署吏。時年方盛。志精於學。又見世亂。無仕官意。竟遂不就。是時諸州郡相疑隔塞不通。太守以其博學多識。使致敬荊州。牟子以為榮爵易讓。使命難辭。遂嚴當行。會被州牧優文處士辟之。復稱疾不起。牧弟為豫章太守。為中郎將笮融所殺。時牧遣騎都尉劉彥。將兵赴之。恐外界相疑兵不得進。牧乃請牟子曰。弟為逆賊所害。骨肉之痛憤發肝心。當遣劉都尉行。恐外界疑難行人不通。君文武兼備有專對才。今欲相屈之。零陵桂陽假塗於通路何如。牟子曰。被秣服櫪見遇日久。列士忘身期必騁效。遂嚴當發。會其母卒亡遂不果行。久之退念。以辯達之故輒見使命。方世擾攘非顯己之秋也。乃歎曰。老子絕聖棄智。修身保真。萬物不干其志。天下不易其樂。天子不得臣。諸侯不得友。故可貴也。於是銳志於佛道。兼研老子五千文。含玄妙為酒漿。翫五經為琴簧。世俗之徒。多非之者。以為背五經而向異道。欲爭則非道。欲默則不能。遂以筆墨之間。略引聖賢之言證解之。名曰牟子理惑云。

Dịch nghĩa:
BẢN DỊCH LÝ HOẶC LUẬN
Giáo sư Lê Mạnh Thát dịch
Lý hoặc của Mâu Tử, một thuyết nói
Truyện Thái thú quận Thương Ngô Mâu Tử Bác.
Mâu Tử tôi đã học kinh truyện, sách chư tử không kể lớn nhỏ, không gì là không ham. Tuy không ưa binh pháp, nhưng cũng vẫn đọc. Tuy đọc sách thần tiên bất tử, dẹp đi không tin, cho là dối trá. Lúc ấy sau khi Linh đế băng (189), thiên hạ nhiễu loạn, chỉ Giao Châu tạm yên. Dị nhân phương Bắc kéo nhau đến ở, phần nhiều thực hành thuật thần tiên tịch cốc trường sinh. Người bây giờ có nhiều học giả. Mâu Tử thường đem ngũ kinh gạn hỏi. Đạo gia thuật sỹ không ai dám đáp, ví ông với Mạnh Kha chống Dương Chu, Mạc Địch.
Trước lúc ấy, Mâu Tử dắt mẹ lánh nạn Giao Châu. Năm 26 tuổi về Thương Ngô lấy vợ. Thái thú nghe tiếng có học, đến thăm mời ra làm quan. Bấy giờ tuổi mới trưởng thành, chí chuyên học vấn, lại thấy đời loạn, không có ý làm quan, nên bèn không đến. Lúc ấy châu quận nghi nhau, cách trở không thông. Thái thú thấy ông học rộng, biết nhiều, nhờ đi “trí kỉnh” Kinh Châu. Mâu Tử nghĩ tước lộc dễ nhượng, sứ mệnh khó từ, ông mới sửa soạn ra đi. Gặp lúc châu mục trọng văn đãi sĩ, bổ làm quan. Ông lại cáo bệnh không đến. Em châu mục làm thái thú Dự Chương bị trung lang tướng Trức Dung giết. Bấy giờ châu mục sai kỵ đô úy Lưu Ngạn đem quân đi đánh song sợ cõi ngoài nghi nhau, quân không được tiến. Châu mục mới mời Mâu Tử, nói: “Em tôi bị nghịch tặc ám hại. Nỗi đau cốt nhục uất phát tim gan, phải sai Lưu đô úy đi, song sợ cõi ngoài nghi kỵ, người đi không thông. Ông văn võ gồm đủ, có tài chuyên đối, nay muốn giúp nhau, mượn đường Linh Lăng, Quế Dương để làm thông lộ, thế nào?”
Mâu Tử đáp: “Chịu ơn nhờ nghĩa, đãi ngộ lâu ngày. Liệt sĩ quên mình, hẹn tất phải đi!” Bèn sửa soạn lên đường, gặp lúc mẹ mất đột ngột, bèn không đi được. Lâu sau đó, ông rút lui, nghĩ rằng: “Vì do thông giỏi, được giao sứ mệnh. Đời nay nhiễu nhương, chẳng phải lúc làm rõ mình”. Bèn thở dài, nói: “Lão Tử dứt thánh bỏ trí sửa thân giữ chân. Vạn vật không ngăn chí ông, thiên hạ không đổi niềm vui của ông, thiên tử không được bầy tôi, chư hầu không được kết bạn, nên có thể là quý”. Từ đó dốc chí vào đạo Phật, gồm ngẫm Lão Tử năm ngàn chữ, ngậm huyền diệu làm rượu ngon, xem ngũ kinh làm đàn sáo. Bọn thế tục nhiều kẻ cho là không phải, vì đã phản bội ngũ kinh, để đi về đạo khác. Muốn cãi thì không phải đạo, muốn im thì không được. Bèn lấy bút mực, gọi dẫn lời thánh hiền để chứng giải, đặt tên là Mâu Tử lý hoặc.

2. Mối quan hệ giữa Phật giáo và Đạo giáo
Câu 10.
問曰。夫福莫踰於繼嗣。不孝莫過於無後。沙門棄妻子捐財貨。或終身不娶。何其違福孝之行也。自苦而無奇。自極而無異矣。牟子曰。夫長左者必短右。大前者必狹後。孟公綽為趙魏老則優。不可以為滕薛大夫。妻子財物世之餘也。清躬無為道之妙也。老子曰。名與身孰親。身與貨孰多。又曰。觀三代之遺風。覽乎儒墨之道術。誦詩書修禮節。崇仁義視清潔。鄉人傳業名譽洋溢。此中士所施行。恬惔者所不恤。故前有隨珠。後有虓虎。見之走而不敢取何也。先其命而後其利也。許由栖巢木。夷齊餓首陽。舜孔稱其賢曰。求仁得仁者也。不聞譏其無後無貨也。沙門修道德。以易遊世之樂。反淑賢。以背妻子之歡。是不為奇。孰與為奇。是不為異。孰與為異哉。
Dịch nghĩa:
Hỏi: - Kìa phúc không gì hơn là nối dõi, bất hiếu không gì hơn là không có con trai. Sa môn bỏ vợ con, vất của cải, có người suốt đời không lấy vợ, sao mà trái với hạnh phúc đức và hiếu tử như thế? Tự khổ mình mà không có chi là kỳ, tự cực mình mà không có chi là lạ cả!
Mâu Tử đáp: - Kìa bên trái dài, thì bên phải ngắn, đằng trước lớn ắt đàng sau hẹp. Mạnh Công Xước làm ông già nước Triệu, nước Ngụy, thì tốt chứ không thể lấy làm đại phu cho nước Đằng, nước Tiết. Vợ con, tài sản là vật thừa ở đời, thân sạch vô vi là huyền diệu của Đạo vậy.
Lão Tử nói: “Danh tiếng với thân mệnh, cái nào thân thiết hơn? Thân mệnh với của cải, cái nào quí hơn?” Lại nói: “Xem di phong của ba đời; ngắm đạo thuật của Nho, Mặc, đọc thi, thư, sửa lễ tiết, chuộng nhân nghĩa, nhìn trong sạch, người trong làng truyền lại sự nghiệp, danh dự lừng lẫy, đấy là việc làm của hạng sĩ bậc trung. Người điềm đạm không để ý đến. Cho nên trước mặt có hạt châu tùy, sau lưng có con cọp gầm, thấy mà bỏ chạy không dám lấy, tại sao? Vì mệnh sống trước đã, rồi sau mới đến lợi vậy. Hứa Do làm tổ ở trên cây, Di Tề chết đói ở Thủ Dương, Thuấn, Khổng ca ngợi là bậc hiền, nói: Cầu đạo nhân được đạo nhân vậy”. Chưa từng nghe thấy chê là không có nối giòng, không có của cải. Sa môn tu đạo đức để đổi niềm vui của đời phù du, về thục hiền để thay cho nỗi sướng vợ con. Như thế mà không lạ, còn chi là lạ? Như thế mà không khác, còn chi là khác?

Câu 14:
問曰。孔子曰。夷狄之有君。不如諸夏之亡也。孟子譏陳相。更學許行之術曰。吾聞用夏變夷。未聞用夷變夏者也。吾子弱冠學堯舜周孔之道。而今捨之。更學夷狄之術。不已惑乎。牟子曰。此吾未解大道時之餘語耳。若子可謂見禮制之華。而闇道德之實。窺炬燭之明。未睹天庭之日也。孔子所言矯世法矣。孟軻所云疾專一耳。昔孔子欲居九夷曰。君子居之何陋之有。及仲尼不容於魯衛。孟軻不用於齊梁。豈復仕於夷狄乎。禹出西羌而聖哲。瞽叟生舜而頑嚚。由余產狄國而霸秦。管蔡自河洛而流言。傳曰。北辰之星。在天之中。在人之北。以此觀之。漢地未必為天中也。佛經所說。上下周極含血之類物皆屬佛焉。是以吾復尊而學之。何為當捨堯舜周孔之道。金玉不相傷。隨碧不相妨。謂人為惑時自惑乎。
 Dịch nghĩa:
Hỏi: - Khổng Tử nói: “Mọi rợ có vua không bằng các nước Hạ mất vua”. Mạnh Tử chê Trần Tương học cái thuật của Hứa Hành, nói: “Ta nghe dùng Hạ để biến cải man di, chưa từng nghe dùng man di để biến cải Hạ”. Ông từ nhỏ học đạo Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng mà ngày nay bỏ đi học cái thuật của man mọi, chẳng đã lầm rồi sao?
Mâu Tử đáp: - Đó là lời thừa khi tôi chưa hiểu đạo lớn vậy. Như ông có thể gọi là thấy vẻ đẹp của lễ chế mà không biết thực chất của đạo đức, thấy đuốc sáng, mà chưa thấy mặt trời giữa trưa. Lời nói của Khổng Tử là để uốn ngay phép đời vậy. Mạnh Kha nói vì ghét sự chuyên nhất thôi. Xưa Khổng Tử muốn ở nơi chín mọi, nói rằng: “Người quân tử ở đây thì có chi là thối nát?” Đến khi Trọng Ni không được dung thân ở nước Lỗ, nước Vệ. Mạnh Kha không được dùng ở nước Tề nước Lương, há các ngài lại làm kẻ sĩ ở nơi man mọi hay sao? Vũ đi ra từ Tây Khương mà thành thánh triết. Cổ Tẩu sinh vua Thuấn mà ương ngu. Do Dư sinh ở Địch mà làm cho nước Tần bá chủ. Quản Thúc Tiên và Sái Thúc Độ từ đất Hà Lạc mà nói phản loạn. (Tả) truyện nói: “Sao phương Bắc ở trên trời là chính giữa, ở tại người là phương Bắc”. Lấy đấy mà xem đất Hán chưa hẳn là trung tâm trời đất vậy. Kinh Phật giảng dạy, trên dưới trùm khắp,loại vật hàm huyết đều thuộc về Phật. Cho nên ta lại tôn kính mà học lấy, sao bảo là phải bỏ cái đạo của Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng, Vàng với ngọc không tổn thương lẫn nhau. Châu tùy và ngọc bích không hại lẫn nhau. Bảo người ta lầm khi chính tự mình lầm vậy.

Câu 29:
問曰。王喬赤松八仙之籙神書百七十卷。長生之事與佛經豈同乎。牟子曰。比其類猶五霸之與五帝。陽貨之與仲尼。比其形猶丘垤之與華恒。涓瀆之與江海。比其文猶虎鞹之與羊皮。斑紵之與錦繡也。道有九十六種。至於尊大。莫尚佛道也。神仙之書。聽之則洋洋盈耳。求其效猶握風而捕影。是以大道之所不取。無為之所不貴。焉得同哉。
Dịch nghĩa:
Hỏi: - Sách Bát tiên của Vương Kiêu, Xích Tùng, Thần thơ 170 quyển, việc trường sinh cùng với kinh Phật có phải giống nhau  không?
Mâu Tử đáp: - So với loại thì như Ngũ bá với Ngũ đế, Dương Hóa với Trọng Ni. So về hình thì như gò đống với Hoa, Hằng, lạch ngòi với sông biển. So về văn thì như da hổ với da dê, vải gai với gấm vóc vậy. Đạo có 96 loại, đến như cao lớn thì không đạo nào hơn đạo Phật. Sách thần tiên nghe thì bao la ngập tai, mà tìm hiệu nghiệm thì như nắm gió bắt bóng. Bởi thế, đạo lớn không nhận, vô vi không quí, sao được giống nhau?

Câu 30:
問曰。為道者或辟穀不食。而飲酒啖肉。亦云老氏之術也。然佛道以酒肉為上誡。而反食穀。何其乖異乎。牟子曰。眾道叢殘凡有九十六種。澹泊無為莫尚於佛。吾觀老氏上下之篇。聞其禁五味之戒。未睹其絕五穀之語。聖人制七典之文。無止糧之術。老子著五千文。無辟穀之事。聖人云。食穀者智。食草者癡。食肉者悍。食氣者壽。世人不達其事。見六禽閉氣不息秋冬不食欲效而為之。不知物類各自有性。猶磁石取鐵不能移毫毛矣。
Dịch nghĩa:
Hỏi: - Học đạo có kẻ tịch cốc không ăn gạo, mà uống rượu ăn thịt, cũng bảo là thuật của họ Lão. Nhưng đạo Phật lấy rượu thịt làm điều cấm tối cao, mà quay lại ăn gạo, sao trái ngược nhau thế?
Mâu Tử đáp: - Các đạo đầy dẫy, gồm có 96 loại. Đạm bạc vô vi, không đạo nào hơn đạo Phật. Tôi xem hai thiên thượng hạ của họ Lão, nghe nói cấm giới năm vị, chưa thấy nói là tuyệt ăn năm thứ gạo. Thánh nhân viết văn bảy kinh không có thuật ngưng lương. Lão Tử làm năm ngàn câu văn không nói việc tịch cốc. Thánh nhân nói: “Ăn gạo là trí, ăn cỏ thì ngu, ăn thịt thì dữ, ăn khí thì thọ”. Người đời không hiểu việc ấy, thấy sáu loài chim nhịn hơi không thở, thu đông không ăn, muốn bắt chước mà làm theo, không biết rằng loài vật mỗi giống tự có bản tính của nó, như từ thạch (đá nam châm) hút sắt mà không thể di chuyển một cái lông nhỏ vậy.

Câu 37:
問曰.道家云。堯舜周孔七十二弟子。皆不死而仙。佛家云。人皆當死莫能免何哉。牟子曰。此妖妄之言。非聖人所語也。老子曰。天地尚不得長久。而況人乎。孔子曰。更去辟世孝常在。吾覽六藝觀傳記。堯有殂落。舜有蒼梧之山。禹有會稽之陵。伯夷叔齊有首陽之墓。文王不及誅紂而歿。武王不能待成王大而崩。周公有改葬之篇。仲尼有兩楹之夢。伯魚有先父之年。子路有菹醢之語。伯牛有命矣之文。曾參有啟足之辭。顏淵有不幸短命之記。苗而不秀之喻。皆著在經典。聖人至言也。吾以經傳為證。世人為驗而云不死。豈不惑哉。
問曰。子之所解誠悉備焉。固非僕等之所聞也。然子所理何以正著三十七條。亦有法乎。牟子曰。夫轉蓬漂而車輪成。窊木流而舟楫設。蜘蛛布而罻羅陳。鳥跡見而文字作。故有法成易無法成難。吾覽佛經之要。有三十七品。老氏道經亦三十七篇。故法之焉。於是惑人聞之踧然失色。叉手避席逡巡俯伏曰。鄙人矇瞽生於幽仄。敢出愚言不慮禍福。今也聞命霍如蕩雪。請得革情洒心自敕。願受五戒作優婆塞
Dịch nghĩa:
Hỏi: - Đạo gia nói: “Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng, bảy mươi hai học trò đều không chết mà thành tiên”. Nhà Phật bảo người ta đều phải chết, chẳng ai có thể tránh được, là làm sao?
Mâu Tử đáp: - Đấy là lời yêu vọng, chẳng phải thánh nhân nói ra.
Lão Từ nói: “Trời đất còn không thể lâu dài, huống hồ là người”.
Khổng Tử viết: “Dù đã tránh đời, nhân hiếu vẫn còn”. Tôi xem lục nghệ, coi truyện ký, Nghiêu có rơi chết; Thuấn có núi Thương Ngô, Vũ có lăng Cối Kê, Bá Di Thúc Tề có mộ Thủ Dương, Văn vương không kịp giết Trụ mà mất, Vũ vương không thể đợi Thành vương lớn mà băng, Châu công có sách về cải táng, Trọng Ni có mộng “hai cột”, Ba Ngư có tuổi mất trước cha, Tử Lộ có lời bị ướp thịt, Bá Ngưu có văn “vong mệnh”, Tăng Sâm có lời “mở chân”, Nhan Uyên có lời ghi “chẳng may chết sớm”, lời ví “lúa không trổ đòng” đều chép trong kinh điển, lời thật của thánh nhân vậy. Tôi lấy kinh truyện làm chứng, người đời làm nghiệm mà nói bất tử há không lầm ư?
- Lời ông giải thích, thật rất đầy đủ, vốn không phải chỗ chúng tôi được nghe. Nhưng sao chỗ ông xử lý, chỉ viết 37 điều? Cũng có mẫu chăng?
Mâu Tử đáp: - Ôi! Cỏ bồng quay mà bánh xe thành; gỗ bông trôi mà thuyền bè có; màng nhện giăng mà lưới chắn bày; vết chim hiện mà chữ viết đặt. Cho nên, có mẫu thành dễ, không mẫu thành khó. Tôi xem yếu lý kinh Phật có 37 phẩm, Đạo kinh họ Lão cũng 37 thiên, nên tôi bắt chước.
Bấy giờ kẻ lầm nghe rồi, giật mình đổi sắc, xoa tay bỏ chiếu, lùi lại cúi rạp thưa: “Bỉ nhân lòa mù, sinh nơi tăm tối, dám thốt lời ngu, không lo họa phước. Nay được nghe dạy, chợt như tuyết sạch. Xin được đổi tình, rửa lòng tự nhắc. Nguyện nhận năm giới, làm ưu bà tắc”.


3. Mối quan hệ giữa Phật giáo và Nho giáo

Câu 9:

問曰。孝經言。身體髮膚受之父母。不敢毀傷。曾子臨沒。啟予手啟予足。今沙門剃頭。何其違聖人之語。不合孝子之道也。吾子常好論是非平曲直。而反善之乎。牟子曰。夫訕聖賢不仁。平不中不智也。不仁不智何以樹德。德將不樹頑嚚之儔也。論何容易乎。昔齊人乘舡渡江。其父墮水。其子攘臂捽頭。顛倒使水從口出。而父命得蘇。夫捽頭顛倒。不孝莫大。然以全父之身。若拱手修孝子之常。父命絕於水矣。孔子曰。可與適道。未可與權。所謂時宜施者也。且孝經曰。先王有至德要道。而泰伯祝髮文身。自從吳越之俗。違於身體髮膚之義。然孔子稱之。其可謂至德矣。仲尼不以其祝髮毀之也。由是而觀。苟有大德。不拘於小。沙門捐家財棄妻子。不聽音視色。可謂讓之至也。何違聖語不合孝乎。豫讓吞炭漆身。聶政[-+]面自刑。伯姬蹈火高行截容。君子以為勇而死義。不聞譏其自毀沒也。沙門剔除鬚髮。而比之於四人。不已遠乎。
Dịch nghĩa:
Hỏi: - Hiếu kinh nói: “Thân thể, tóc da nhận từ cha mẹ không dám hủy thương” - Tăng Tử lúc sắp mất, bảo: “Kéo tay ra, duỗi chân ra!” Nay sa môn cắt tóc, sao trái với lời dạy của thánh nhân, không hợp với đạo người con hiếu. Ông thường ưa luận phải trái, bàn thẳng cong, mà đi ngược điều thiện hay sao?
Mâu Tử đáp: - Kìa chê thánh hiền là bất nhân, bàn không trúng là bất trí. Bất nhân, bất trí, lấy chi để gầy đức. Đức không gầy là bọn ương ngu vậy. Sao mà bàn luận giản dị thế? Xưa người nước Tề đi thuyền sang sông. Người cha ngã xuống nước, người con xách tay, chúc đầu chổng ngược để cho nước ở miệng ra mà mạng cha được sống. Kìa chúc đầu lộn ngược cha, còn gì bất hiếu bằng. Nhưng để bảo toàn thân thể cha, nếu khoanh tay giữ đạo con hiếu thông thường thì mạng cha chết mất dưới nước.
Khổng Tử nói: “Có thể cùng theo đạo, nhưng chưa có cùng quyền biến”. Đó gọi là Tùy thời mà làm vậy. Vả lại, Hiếu kinh nói: “Tiên vương có chí đức, có yếu đạo”. Mà Thái Bá cắt tóc, vẽ mình, tự theo tục của Ngô việt, trái với nghĩa thân thể tóc da. Vậy mà, Khổng Tử ca tụng, cho có thể gọi là chí đức. Trọng Ni không cho cắt tóc, mà chê bai. Do thế mà thấy nếu có đức lớn thì không câu nệ vào tiểu tiết. Sa môn vứt gia sản, bỏ vợ con, không nghe đàn, không nhìn sắc, có thể bảo là đã nhường hết thì sao lại trái với lời thánh không hợp đạo hiếu?
Dự Nhượng nuốt than, sơn mình, Nhiếp Chính lột mặt, tự vẫn. Bá Cơ dẫm lửa, Hạnh Cao cắt mặt. Quân tử cho là dũng và chết vì nghĩa, không nghe ai chê là tự hủy chết. Sa môn cắt bỏ râu tóc, so với bốn người trên, không xa chi mấy.

Câu 10 (Như câu 10 ở trên)
Câu 11:

問曰。黃帝垂衣裳制服飾。箕子陳洪範貌為五事首。孔子作孝經服為三德始。又曰。正其衣冠尊其瞻視。原憲雖貧不離華冠。子路遇難不忘結纓。今沙門剃頭髮披赤布。見人無跪起之禮儀。無盤旋之容止。何其違貌服之制。乖搢紳之飾也。牟子曰。老子云。上德不德是以有德。下德不失德是以無德。三皇之時食肉衣皮。巢居穴處以崇質朴。豈復須章甫之冠曲裘之飾哉。然其人稱有德而敦厖允信而無為。沙門之行有似之矣。或曰。如子之言。則黃帝堯舜周孔之儔。棄而不足法也。牟子曰。夫見博則不迷。聽聰則不惑。堯舜周孔修世事也。佛與老子無為志也。仲尼栖栖七十餘國。許由聞禪洗耳於淵。君子之道。或出或處。或默或語。不溢其情不淫其性。故其道為貴在乎所用。何棄之有乎。
Dịch nghĩa
Hỏi: - Hoàng đế truyền xiêm áo chế phục sức. Cơ Tử bày Hồng phạm, dáng vẻ đứng đầu năm việc. Khổng Tử viết Hiếu kinh, phục sức đứng đầu ba đức. Lại nói: “Chỉnh đốn mũ áo, tôn nghiêm ngắm nhìn”. Nguyên Hiến tuy nghèo, không rời mũ Hán. Tử Lộ gặp nạn, không quên tết giải mũ. Nay sa môn đầu cắt tóc, mặc vải đỏ, thấy người thì, không có lễ nghi quì đứng, không có vẻ mặt săn đón, sao mà trái với chế độ ăn mặc dáng vẻ, ngược với phục sức của cân đai đến thế?
Mâu Tử đáp: - Lão Tử nói: “Đức cao không khoe đức, nên mới có đức, đức thấp không mất đức, nên mới không đức”. Thời Ba vua ăn thịt sống, mặc áo da, ở tổ, ổ lỗ, vì chuộng chất phác. Há lại cần mũ chương phủ, áo khúc cừu sao? Vậy mà người ta ca ngợi là có đức mà đôn hậu, đáng tin mà vô vị. Hạnh sa môn cũng tương tự thế đấy!
Hỏi: - Như lời ông nói, bọn Hoàng đế, Nghiêu, Thuấn. Châu, Khổng là đáng bỏ, không đủ dùng làm khuôn phép?
Mâu Tử đáp: - Hễ thấy rộng thì không lạc, nghe thông thì không lầm. Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng tu sửa cuộc đời, còn Phật và Lão chí nhằm vô vi. Trọng Ni bôn ba hơn bảy mươi nước. Hứa Do nghe nói nhường ngôi thì rửa tai ở vực. Đạo người quân tử, hoặc ra hoặc ở, hoặc im hoặc nói, không buông lòng mình, không thả tính mình. Cho nên, đạo quí ở chỗ ứng dụng, sao có sự bỏ đi?

Câu 13:
問曰。孔子云。未能事人焉能事鬼。未知生焉知死。此聖人之所絕也。今佛家輒說生死之事鬼神之務。此殆非聖哲之語也。夫履道者。當虛無惔怕歸志質朴。何為乃道生死以亂志說鬼神之餘事乎。牟子曰。若子之言。所謂見外未識內者也。孔子疾子路不問本末以此抑之耳。孝經曰。為之宗廟以鬼享之。春秋祭祀以時思之。又曰。生事愛敬。死事哀慼。豈不教人事鬼神知生死哉。周公為武王請命曰。旦多才多藝能事鬼神。夫何為也。佛經所說生死之趣。非此類乎。老子曰。知其子復守其母。沒身不殆。又曰。用其光復其明。無遺身殃。此道生死之所趣。吉凶之所住。至道之要實貴寂寞。佛家豈好言乎。來問不得不對耳。鍾鼓豈有自鳴者。捊加而有聲矣。
Dịch nghĩa:
Hỏi: - Khổng Tử nói “Chưa thể thờ người, làm sao có thể thờ quỉ; chưa biết sự sống làm sao biết được cái chết”. Đấy là điều thánh nhân không bao giờ đề cập tới. Nay nhà Phật luôn luôn thuyết về việc sống chết, chuyện quỉ thần, e rằng không phải lời nói của thánh triết vậy. Kìa kẻ sống đạo, nên hư vô đạm bạc, qui chí về chất phác. Sao còn nói lẽ sống chết làm chi để rối loạn ý chí, thuyết về quỉ thần là việc thừa vậy.
Mâu Tử đáp: - Như lời ông nói, đó gọi là thấy bên ngoài chưa biết bên trong vậy. Khổng Tử ghét Tử Lộ không hỏi gốc ngọn, nên đem điều đó ra mà dẹp đi. Hiếu kinh nói: “Làm tôn miếu để cúng quỉ thần, tế lễ hai mùa xuân thu để nghĩ đến theo thời tiết”. Lại nói: “Khi sống thờ bằng kính yêu, khi chết thờ bằng thương nhớ”. Há chẳng phải là dạy người thờ quỉ thần, biết lẽ sống chết đấy ư? Chu công vì Vũ vương cầu sinh mệnh, nói: “Đán này nhiều tài nhiều nghề, có thể thờ được quỉ thần”. Kìa thế làm gì vậy? Kinh Phật thuyết về lý sống chết chẳng phải cùng loại như thế ư? Lão Tử  nói: “Biết là con lại quay về giữ lấy mẹ thì trọn đời không nguy hại”. Lại nói: “Dùng ánh lửa quay về nguồn sáng của nó, không để tai ương cho thân”. Đó là nói về ý nghĩa của đạo sống chết, mục đích của điều lành điều dữ. Điểm thiết yếu của đạo tối cao, thực quí ở sự yên lặng. Nhà Phật há ham nói nhiều ư? Có kẻ đến hỏi không thể không đáp. Chuông trống há có tự kêu, đánh vào mới có tiếng vậy.

Câu 14
問曰。孔子曰。夷狄之有君。不如諸夏之亡也。孟子譏陳相。更學許行之術曰。吾聞用夏變夷。未聞用夷變夏者也。吾子弱冠學堯舜周孔之道。而今捨之。更學夷狄之術。不已惑乎。牟子曰。此吾未解大道時之餘語耳。若子可謂見禮制之華。而闇道德之實。窺炬燭之明。未睹天庭之日也。孔子所言矯世法矣。孟軻所云疾專一耳。昔孔子欲居九夷曰。君子居之何陋之有。及仲尼不容於魯衛。孟軻不用於齊梁。豈復仕於夷狄乎。禹出西羌而聖哲。瞽叟生舜而頑嚚。由余產狄國而霸秦。管蔡自河洛而流言。傳曰。北辰之星。在天之中。在人之北。以此觀之。漢地未必為天中也。佛經所說。上下周極含血之類物皆屬佛焉。是以吾復尊而學之。何為當捨堯舜周孔之道。金玉不相傷。隨碧不相妨。謂人為惑時自惑乎。
Dịch nghĩa:
Hỏi: - Khổng Tử nói: “Mọi rợ có vua không bằng các nước Hạ mất vua”. Mạnh Tử chê Trần Tương học cái thuật của Hứa Hành, nói: “Ta nghe dùng Hạ để biến cải man di, chưa từng nghe dùng man di để biến cải Hạ”. Ông từ nhỏ học đạo Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng mà ngày nay bỏ đi học cái thuật của man mọi, chẳng đã lầm rồi sao?
Mâu Tử đáp: - Đó là lời thừa khi tôi chưa hiểu đạo lớn vậy. Như ông có thể gọi là thấy vẻ đẹp của lễ chế mà không biết thực chất của đạo đức, thấy đuốc sáng, mà chưa thấy mặt trời giữa trưa. Lời nói của Khổng Tử là để uốn ngay phép đời vậy. Mạnh Kha nói vì ghét sự chuyên nhất thôi. Xưa Khổng Tử muốn ở nơi chín mọi, nói rằng: “Người quân tử ở đây thì có chi là thối nát?” Đến khi Trọng Ni không được dung thân ở nước Lỗ, nước Vệ. Mạnh Kha không được dùng ở nước Tề nước Lương, há các ngài lại làm kẻ sĩ ở nơi man mọi hay sao? Vũ đi ra từ Tây Khương mà thành thánh triết. Cổ Tẩu sinh vua Thuấn mà ương ngu. Do Dư sinh ở Địch mà làm cho nước Tần bá chủ. Quản Thúc Tiên và Sái Thúc Độ từ đất Hà Lạc mà nói phản loạn. (Tả) truyện nói: “Sao phương Bắc ở trên trời là chính giữa, ở tại người là phương Bắc”. Lấy đấy mà xem đất Hán chưa hẳn là trung tâm trời đất vậy. Kinh Phật giảng dạy, trên dưới trùm khắp,loại vật hàm huyết đều thuộc về Phật. Cho nên ta lại tôn kính mà học lấy, sao bảo là phải bỏ cái đạo của Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng, Vàng với ngọc không tổn thương lẫn nhau. Châu tùy và ngọc bích không hại lẫn nhau. Bảo người ta lầm khi chính tự mình lầm vậy.