Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ABHIDHARMA TRONG HÁN TẠNG

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ABHIDHARMA 
TRONG HÁN TẠNG

Thích Hạnh Bình


Thánh điển Phật giáo gồm 3 tạng: Kinh, Luật và Luận. Truyền thuyết cho rằng, Kinh và luật được kiết tập ngay năm đầu sau khi đức Phật nhập diệt, mặc dù dưới hình thức là khẩu truyền, thế thì Luận (abhidharma) được biên tập vào thời điểm nào? Vấn đề nghe ra tuy đơn giản, nhưng thật khó xác định niên đại. Thông thường giới nghiên cứu Phật học cho rằng, luận được biên tập ở thời kỳ Phật giáo Bộ phái, nếu như Phật giáo Bộ phái xuất hiện sau Phật nhập diệt hơn 100 năm thì Luận tạng cũng được xuất hiện bắt đầu vào thời điểm này, cũng dưới hình thức khẩu truyền, còn lý do tại sao phải tách Phật pháp thành một tạng riêng, mang ý nghĩa gì? Nếu chúng ta căn cứ hình thức và nội dung biên tập 4 bộ A hàm và 5 bộ Nikaya có thể lý giải lý do tại sao phải biên tập thành một tạng riêng. Theo tôi, thật ra 4 bộ A hàm (hay 5 bộ Nikaya) chỉ có tên gọi khác nhau, nhưng phần lớn nội dung tư tưởng gần giống nhau, tất cả đều dựa vào những bài kinh ngắn (matrka) trong “Kinh Tạp A hàm” biên tập thành “Trường A hàm”, “Trung A hàm”, “Tăng Nhất A hàm”, ví dụ nội dung ‘Kinh Phạm Động’, ‘Kinh Sa Môn Quả’ trong “Trường A hàm” chỉ là sự kết hợp các kinh 154, 155, 156, 157, 158, 159, 162, 163, 164, 165, 559… trong “Kinh Tạp A hàm”, ngay cả “Trung A hàm” và “Tăng Nhất” cũng mang tính chất như vậy, tuy nhiên cũng có một số kinh có nội dung mang tính cá biệt, không có trong “Tạp A hàm” có thể nói do hậu thế thêm vào. Ngoài ra, trong 4 bộ A-hàm hay 5 bộ Nikaya có khá nhiều kinh mang hình thức abhidharma, ví dụ ‘Phân Biệt Lục Giới Kinh’ (分別六界經); ‘Phân Biệt Lục Xứ Kinh’ (分別六處經); ‘Phân Biệt Quán Pháp Kinh’ (別觀法經) ‘Phân Biệt Đại Nghiệp Kinh’(分別大業經) trong “Kinh Trung A-hàm” (CBETA, T01). Ở đây từ ‘phân biệt’ (分別, Vibhanga) chính là hình thức Abhidharma, hay một số kinh có hình thức đức Phật chỉ giảng dạy mang tính đại cương, sau đó được các đại đệ tử Phật dựa vào đoạn kinh mang tính đại cương tiến hành phân tích giảng giải, như ‘Phân Biệt Thánh Đế Kinh’ (分別聖諦經). Nội dung kinh này đức Phật chỉ đề cập: Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế, sau đó Xá-lợi-phất tiến hành phân tích rộng, hình thức phân tích này trong 9 phần giáo hay 12 phần giáo gọi là Phương quảng (vaipulyavedalla).
Cần chú ý hình thức biên tập “Kinh Tăng Nhất A hàm” hay “Kinh Tăng Chi” xuất hiện một số vấn đề không bình thường, cần làm sáng tỏ. Hình thức biên tập kinh này theo pháp số, từ 1 pháp cho đến 11 pháp, có nghĩa là những pháp nào thuộc một pháp qui vào phần 1 pháp, những pháp nào nói về 2 pháp qui vào phần 2 pháp, cứ thế biên tập cho đến 11 pháp. Tuy nhiên vào thời bấy giờ pháp số trong giáo lý không dừng lại ở con số 11, còn có pháp số thứ 12 như 12 xứ, 12 nhân duyên..; pháp số thứ 18 như 18 giới…. Thế thì tại sao những người biên tập dừng lại con số 11 pháp, xuất hiện trường hợp bất bình thường như thế? Lý do nào không tiếp tục biên tập? Sự dừng lại ở con số 11 pháp này, có phải chăng những người biên tập nêu ra vấn đề tranh luận: Nếu chúng ta cứ tiếp tục biên tập như thế này, thì những lời nào là lời Thế Tôn dạy, lời nào là lời của chúng ta thêm vào? Có lẽ đây chính là lý do tại sao các nhà biên tập không tiếp tục biên tập từ pháp số thứ 12 trở về sau, hay nói đúng hơn không biên tập dưới hình thức kinh, bắt đầu biên tập dưới hình thức khác, gọi là abhidharma (A-tỳ-đàm), tức là lấy kinh làm đề tài phân tích giải thích, hình thức biên tập này biểu thị sự tách khỏi hình thức luận ra khỏi kinh, từ đây hình thành một tạng riêng gọi là A-tỳ-đàm. Bộ luận đầu tiên “Xá Lợi Phất A-tỳ-đàm Luận” (舍利弗阿毘曇論Sariputra abhidharma sastra: CBETA, T28, no. 1548), được Đàm-ma-da-xá (Dharma-yaśas)… dịch vào thời hậu Tần (384—417), rất tiếc nguyên bản Phạn văn không còn, luận này tuy có những phẩm xuất hiện rất trễ, nhưng các phẩm Uẩn, Xứ, Giới… là nền tảng lý luận của A-tỳ-đàm, từ đó biên tập hình thành các luận về sau, tác giả luận này tuy không rõ, nhưng tôi cho là của Xá-lợi-phất, mặc dù không phải chính Ngài là người chấp bút, mà do những người sau biên tập lại phương pháp lý luận phân tích của Ngài. Có thể nói Xá-lợi-phất là người sáng lập Abhidharma, về sau các luận sư Hữu bộ biên tập 7 bộ luận cũng dựa vào hình thức phân tích của Ngài, có lẽ đó cũng chính là lý do tại sao Phật giáo Đại thừa lại hình thành nhân vật biểu tượng cho trí tuệ là Văn Thù, còn Xá-lợi-phất thành đối tượng phê phán trong hệ thống kinh điển Đại thừa.
Nội dung kết cấu “Xá Lợi Phất A-tỳ-đàm Luận” được chia thành 4 phần: 1. Vấn phần (問分, vacana-anga) chuyên đề sử dụng hình thức 1 câu hỏi 1 câu trả lời để giải thích định nghĩa những danh từ pháp tướng chuyên môn trong Phật pháp; 2. Phi vấn phần (非問分, avacana-anga) chủ yếu căn cứ những pháp tướng (matrka) tiến hành giải thích phân biệt gọi là pháp số phân biệt; 3. Nhiếp, tương ưng phần (攝相應分, samgraha samyukta anga), nhiếp là hàm nhiếp, có nghĩa là pháp này hàm nhiếp pháp kia, ví dụ ngũ uẩn hàm nhiếp sắc thọ tưởng hành thức, ‘tương ưng’ là chuyên đề giải thích sự liên hệ giữa pháp này với pháp khác; 4. Tự phần (緒分, pratyaya anga) là chuyên đề thảo luận mối quan hệ giữa nhân và duyên, đây là phạm trù cơ bản trong Abhidharma.
Từ những cơ sở lý luận cơ bản này sau này phái Đồng Diệp bộ (Tāmraparṇīya) của Phật giáo Nam truyền phát triển thành 7 bộ luận: “Pháp Tập Luận” (dhamma-samgika), “Phân Biệt Luận” vibhanga), “ Giới Luận” (dhata-katha), Nhân Thi Thiết luận” (puggala-pannati), “Song Luận” (yamaka), “Phát Thú Luận” (patthana), “Luận Sự” (Kathavatthu). Đồng thời các nhà Hữu Bộ cũng dựa vào phương pháp phân tích này biên tập thành 7 bộ luận của mình:  “Pháp Uẩn Túc Luận” (《阿毘達磨法蘊足論》, “Tập Dị Môn Luận” (《阿毗達磨集異門足論》, “Thi Thiết Luận” (《阿毗達磨施設足論》), “Phẩm Loại Túc Luận (《阿毗達磨品類足論》, “ Giới Thân Luận (《阿毗達磨界身足論, “ Thức Thân Túc Luận” (《阿毗達磨識身足論》,”Phát Trí Luận. 《阿毗達磨發智論》.
    7 luận của Hữu bộ hình thành tư tưởng ‘Tam thế thật hữu, pháp thể hằng tồn’, đây chính là nguyên nhân Phật giáo Đại thừa xuất hiện, Bát nhã và Trung Quán đã đưa ra tư tưởng đối lập, cho rằng ‘Tất cả pháp đều không’ hay ‘Duyên khởi tánh không’ tác phẩm tiêu biểu là “Trung Luận”. Cả hai hệ tư tưởng này đều mang tính cực đoan ‘hữu’ và ‘vô’ cho nên trường phái duy thức học xuất hiện, trong đó “Câu Xá Luận” của Thế Thân là tác phẩm đại diện là trường phái này. Sau đó hình thành hai trường phái: 1. Hộ Pháp đại diện cho phái duy tâm luận và An Huệ đại diện cho trường phái Duy biểu luận. Đây là khái quát quá trình phát triển Abhidharma trong Hán tạng. Vì giới hạn về thời gian, cho nên ở đây chỉ khái quát giới thiệu:
                  



1.     Các hình thức Abhidharma.
2.     Abhidharma trong kinh điển A-hàm và Nikaya.
a.      Hình thức Abhidharma trong 9 phần giáo hay 12 phần giáo (十二分教(梵文:dvādaśānga—buddha—Vacana. 1. Khế kinh (契经sūtrasutta); Kỳ dạ (祇夜geyageyya应颂、重颂; 3. Ký biệt (记别(vyākaraṇaveyyākaraṇa,维伽罗那、记说、受记、悬记; 4. Phúng tụng (讽颂(gāthā伽陀、偈; 5. Tự thuyết (自说(udāna,优陀那、无问自说、感兴语; 6. Nhơn duyên (因缘(nidāna,尼陀那; 7. Thí dụ (譬喻(avadānaapadāna,阿婆陀那、阿波陀那; 8. Bổn sự (本事(itivṛttakaitivuttaka,伊帝目多伽、如是语; 9. Bổn sanh (本生(Jātaka,阇多伽; 10. Phương quảng (方广(vaipulyavedalla,毗佛略、毗陀罗、有明; 11. Vị Tằng hữu (未曾有法(adbhutadharmaabbhuta-dhamma,阿佛陀达磨; 12. Luận nghị (论议(upadeśa,优波提舍、论议)。
b.     Kinh phân biệt
3.     Vị trí tác phẩm “Xá Lợi Phất A-tỳ-đàm Luận” trong quá trình phát triển Abhidharma;
a.      Phương pháp thảo luận
b.     Tư tưởng. Chủ yếu phân tích làm thế nào con người có thể nhận thức được thế giới tự nhiên (Hiện tượng luận).
4.     Khái quát giới thiệu tư tưởng ‘Tam thế thật hữu, pháp thể hằng tồn’ qua các tác phẩm của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ.
5.     Khái quát giới thiệu tư tưởng ‘duyên khởi tánh không’ qua tác phẩm “Trung Luận” của Long Thọ.
6.     Khái quát giới thiệu hai hệ tư tưởng duy tâm luận của Hộ pháp và duy biểu luận của An Huệ.

Tài liệu tham khảo:

2.     Tuệ Sỹ dịch “Kinh Trường A-hàm”, Nxb Phương Đông;
3.     Đức Thắng dịch “Kinh Tạp A-hàm”, Nxb Phương Đông;
4.     Tuệ Sỹ dịch “Kinh Tăng Nhất A-hàm”, Nxb Phương Đông;
5.     “Xá Lợi Phất A-tỳ-đàm Luận” (舍利弗阿毘曇論Sariputra abhidharma sastra: CBETA, T28, no. 1548),
6.     《阿毘達磨法蘊足論》(CBETA, T26, no. 1537);
7.     《阿毘達磨識身足論》(CBETA, T26, no. 1539);
8.     《阿毘達磨品類足論》(CBETA, T26, no. 1542);
9.     《阿毘達磨發智論》(CBETA, T26, no. 1544);
10.  《阿毘達磨大毘婆沙論》(CBETA, T27, no. 1545);
11.  《中論》(CBETA, T30, no. 1564).
12.  印順說一切有部為主的論書與論師之研究》正聞出版;
13.  Thích Hạnh Bình “Triết học Có và Không của Phật giáo Ấn Độ” Nxb Phương Đông, 2007.
14.  Ấn Thuận, “Lược giảng Luận Trung Quán” Hạnh Bình Quán Như dịch, Nxb Phương Đông, 2007.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét